(Trích trong “Muối Cho Đời” của ĐHY Joseph Ratzinger (ĐTC Bênêđictô XVI) do Trần Hoành và Phạm Hồng Lam chuyển ngữ)
NGỪA THAI Thưa Hồng Y, nhiều tín-hữu không hiểu nổi thái độ của Giáo Hội đối với vấn đề ngừa thai. Ngài có biết tại sao họ không hiểu nổi không? Có, tôi hiểu rất rõ, vấn đề thật nhiêu khê. Con người ngày nay đứng trước sức ép từ nhiều phía, từ lối sống, từ hoàn cảnh không thể có nhiều con vì vấn đề chỗ ở và từ bao nhiêu cái khác. Nhưng ở đây ta không nên nhìn vào từng trường hợp riêng, nhưng nên nhìn đến những ý hướng lớn mà Giáo Hội muốn nhắm tới. Tôi tin rằng ở đây có ba sự lựa chọn căn bản. Lựa chọn thứ nhất, một lựa chọn nền tảng, là phải có một thái độ tích cực về vai trò của đứa con trong gia đình nhân loại. Trong địa hạt này đã có một thay đổi lạ lùng. Từ thời xa xưa cho tới vào thế kỷ 19 có nhiều con được coi là ân huệ, ngày nay, trái lại, chúng bị coi là một sự đe doạ. Người ta nghĩ rằng con-cái sẽ choán mất chỗ của họ trong tương lai, chúng đe doạ môi trường sống của họ v.v.. Ở điểm này Giáo-hội muốn trở lại cái nhìn thuở ban đầu, cái nhìn đích thực, coi đứa con, một con người mới, là một ân huệ. Chính khi ta trao ban sự sống, thì cũng là lúc ta tiếp nhận sự sống cho chính mình; và chính sự thoát ra khỏi mình này cũng như chấp nhận ân huệ của công cuộc tạo dựng là thái độ tự nền tảng rất tốt cho con người. Lựa chọn thứ hai là phải lưu ý tới mối tương quan chặt chẽ giữa tính dục và truyền sinh. Điểm này rất cần thiết vì ngày nay ta chứng kiến sự phân biệt hai khía cạnh này, một hiện tượng trước đây chưa có. Gần đây, ngay cả những khuôn mặt tiêu biểu của thế hệ 1968, một thế hệ giầu kinh nghiệm ngừa thai, có những tuyên bố rất lạ lùng. Thí dụ Rainer Langhans, con người trước kia, trong những cộng đồng của ông ta, chạy tìm khoái lạc trong dục tính, đã lên tiếng: «Với thuốc ngừa thai người ta lột mất chiều kích tâm linh của tính dục và đẩy con người vào ngõ cụt». Ông phàn nàn: «Thời nay không còn trao tặng, hiến dâng nữa». Ngày nay ông xác định: «cái cao cả nhất» của tính dục là trở thành «cha mẹ» và ông gọi sự kiện đó là «cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa». Càng ngày người ta càng đi tới nhận xét có hai thực tại hoàn toàn tách biệt nhau. Trong cuốn tiểu thuyết giả tưởng nổi tiếng. Thế giới mới đẹp “ta thấy Huxley, với một cái nhìn rất có cơ sở và rõ ràng về bi kịch con người, mô tả về một thế giới tương lai, trong đó tính dục không còn dính dáng tí gì nữa với việc truyền sinh. Ở đó trẻ con được sản xuất trong các viện bào chế theo kế hoạch rõ ràng. Đây chỉ là một biếm họa, nhưng, cũng như các biếm hoạ khác, nó nói lên một ý nghĩa: Con cái phải là một cái gì được hoạch định, phải được sản xuất, nghĩa là chúng được hình thành qua sự kiểm soát của trí tuệ. Như vậy thì con người tự huỷ diệt chính mình. Như vậy con cái trở thành sản phẩm để con người thể hiện ý muốn của chính mình và ngay từ đầu chúng mất hẳn ý nghĩa như những dự án cuộc đời riêng biệt. Và tính dục biến thành đối tượng đổi chác. Mối lien hệ giữa nam nữ từ đó dĩ nhiên cũng mất; ta thấy rõ sự việc đang diễn tiến thế nào. Như vậy vấn đề ngừa thai thuộc phạm vi những lựa chọn căn bản mà Giáo Hội muốn con người có. Lựa chọn thứ ba trong phạm vi này là con người không thể giải quyết những vấn nạn luân lý lớn bằng phương pháp kỹ thuật hay bằng hoá chất, mà phải giải quyết trên bình diện luân lý bằng một lối sống. Tôi tin rằng điều này biệt lập với chuyện ngừa thai, là một trong những nguy hiểm lớn của chúng ta. Chúng ta muốn dùng kỹ thuật để giải quyết chuyện làm người và đã quên đi rằng con người có những vấn nạn uyên nguyên không thể giải quyết được bằng kỹ thuật, nhưng chúng đòi hỏi một lối sống và những quyết định nền tảng cho cuộc đời. Tôi muốn nói rằng trong vấn đề ngừa thai ta phải lưu ý tới những lựa-chọn căn bản này, trong đó Giáo Hội đang vì con người mà tranh đấu. Sở dĩ Giáo Hội chống đối là vì muốn làm nổi bật con người lên. Những đòi hỏi của Giáo Hội nhiều khi không được diễn tả khéo léo, nhưng chúng gói ghém những chỉ dẫn cao quý có chiều kích tâm linh cho đời sống con người. Tuy nhiên vẫn còn câu hỏi, một người nào đó hay một cặp vợ chồng chẳng hạn, đã có nhiều con, cũng có thể bị kết án là thiếu quan điểm tích cực về con cái? Không, chắc-chắn là không. Và cũng không nên làm như thế. Dù vậy, phải chăng những người đó phải biết rằng họ đang sống trong một thứ tội lỗi, nếu họ…. Tôi nghĩ đó là những câu hỏi cần bàn với vị linh hướng, vị linh mục, không thể nói một cách trừu tượng được.
NẠO PHÁ THAI Theo Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Giáo Hội sẽ còn quyết liệt chống lại mọi biện pháp dính líu tới «khuyến khích phá thai, tuyệt sản và ngừa thai». Theo ngài những biện pháp đó làm tổn thương phẩm giá con người là hình ảnh của Chúa và huỷ diệt nền tảng xã hội. Vấn đề cơ bản là bảo vệ sự sống. Nhưng mặt khác, tại sao Giáo Hội không loại trừ án tử hình, mà lại coi đó là «quyền của quốc gia» như được ghi trong sách Giáo lý? Trong án tử, nếu được xử theo đúng pháp luật, người ta trừng phạt một kẻ bị chứng minh đã phạm tội và là mối nguy cho trật tự xã hội. Phá thai, trái lại, là án tử cho một kẻ hoàn toàn vô tội. Đó là hai chuyện khác hẳn nhau, không thể so sánh được. Chuyện có thật là một số người coi đứa con chưa sinh như là một địch thủ, vô cớ chen vào cuộc đời và hạn chế cuộc sống tôi, vì thế tôi phải triệt hạ như một kẻ tấn công bất chính. Nhưng như vậy là rơi vào cái nhìn, như chúng ta đã nói trên, coi đứa con không như một con người được Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài và nó có quyền sống riêng, mà trái lại coi nó là một kẻ thù hay một vật chướng ngại phải bị xử lý tuỳ ý. Tôi nghĩ vấn đề là phải làm sao chiếu sáng lương tri để con người nhìn nhận thai nhi là một con người, một cá thể. Đó là một nhân vị khác biệt người mẹ, mặc dầu nó cần sự che chở trong bụng mẹ và bởi thế phải được đối xử như một con người, vì nó là một con người. Khi chối bỏ nguyên tắc: mỗi người là một người được Chúa chở che và tuỳ tiện không chấp nhận tư cách người nơi họ, thì cũng có nghĩa là ta chối bỏ nền tảng của nhân quyền. Nhưng nếu ai đó chẳng đặng đừng phải quyết định phá thai thì họ có bị kết tội chống lại sự sống không? Ai có tội, ai không, câu hỏi này không thể quyết định một cách trừu tượng được. Nhưng có thể nói, hành vi phá thai bất kể ai gây nên, có thể là vì sức ép của đàn ông. Tự bản chất là giết một con người để nhằm giải quyết một tình trạng tranh chấp. Nhưng phá thai không bao giờ giải quyết ổn thoả những tranh chấp. Các nhà tâm lý cho chúng ta hay chuyện đó ám ảnh lên tâm trí của các bà mẹ ra sao, bởi vì họ biết rằng họ đang mang một con người, nó có thể là con mình và có thể là đứa con làm mình hãnh diện. Dĩ nhiên xã hội phải giúp các bà mẹ có được những phương cách giải quyết khác, giúp họ bớt bị áp lực đè nặng và giúp làm tái sinh nơi họ tình yêu đối với con cái.
TÁI HÔN SAU KHI LY DỊ Rút phép thong công những người đã kết hôn và, sau khi ly dị, sống đời hôn-nhân theo luật đời, nhưng không được Giáo Hội công nhận, là một sự kiện ngày nay chỉ có những tín hữu công giáo đặc biệt trung thành mới có thể hiểu được. Điều này xem ra bất công, làm nhục người ta và kết cục thiếu tinh thần Kitô Giáo. Năm 1972 chính ngài phát-biểu: “Hôn-nhân là một bí-tích… nó không loại trừ sự kiện cộng đồng Giáo Hội đón nhận những ai chấp nhận giáo lý này và những nguyên tắc sống này, nhưng đang rơi vào một hoàn cảnh éo le khiến họ đặc biệt cần được hiệp thông trọn vẹn với nhiệm thể Chúa Kitô”. Trước hết cần nói rõ, xét về mặt giáo luật thuần tuý, những đôi hôn nhân đó không bị dứt phép thong công theo nghĩa giáo-luật. Vạ tuyệt thông là một tổng hợp những biện pháp phạt vạ của Giáo Hội, là một sự hạn chế tư cách thành viên trong Giáo Hội. Những người nói trên không bị hình phạt này. Họ vẫn là thành viên của Giáo Hội, vì đang ở trong một tình trạng quá đặc biệt nên không thể rước lễ, nhưng về mặt pháp lý họ không bị vạ tuyệt thông. Trong một thế giới càng ngày hôn nhân càng đổ vỡ nhiều, thì rõ ràng vấn đề trở thành một gánh nặng lớn, không thể chối cãi điểm này. Nhưng tôi nghĩ gánh nặng đó người ta có thể gánh nổi, khi thấy có những người khác cũng không được rước lễ. Vấn-đề sở dĩ trở thành nỗi khổ tâm là vì người ta coi việc rước lễ là một nghi thức xã hội mà nếu mình không tham dự thì sẽ bị bẽ mặt. Nếu người ta nhận thức được và tự nhủ rằng, tôi đã phạm một lỗi lầm, nên trong hoàn cảnh hiện tại tôi không thể lên rước lễ, và nếu, như thánh Phaolô nói, biết phân biệt than thể Chúa Kitô như thế, lập tức người ta sẽ có cái nhìn khác. Đó là một điều kiện. Điều kiện thứ hai là họ phải cảm được rằng Giáo Hội dù vậy vẫn chấp nhận họ và cùng đau khổ với họ. Dĩ nhiên, điều đó cũng phải được thể hiện ra trong đời sống của một cộng đoàn. Ngược lại, khi vì ơn ích cho Giáo Hội và nhân loại chấp nhận sự từ chối, thì lúc đó mình đang thực sự làm chứng cho tính cách đặc biệt của hôn nhân. Ở đây có một điểm tôi tin là rất quan trọng: Ta sẽ nhận ra rằng đau khổ và từ chối có thể là một cái gì tích cực và ta phải tìm ra một lien hệ mới với chúng. Kết cục, ta sẽ ý thức được rằng không rước lễ chúng ta vẫn có thể hiệp thông dâng lễ, có thể tham dự bí tích Thánh-thể một cách ơn-ích và ý nghĩa. Chuyện đó vẫn còn là vấn đề khó khăn, nhưng tôi nghĩ, nếu một số yếu tố lien hệ được xếp đúng chỗ thì mọi sự sẽ có thể chịu đựng dễ hơn. Dù sao đi nữa linh-mục chủ tế vẫn đọc: “Phúc cho những ai được mời tới bàn tiệc của Chúa”. Như vậy, những người khác phải tự cảm-thấy là vô phúc? Rất tiếc việc dịch thuật đã không rõ ràng. Câu trên không ám chỉ trực-tiếp tới phép Thánh thể. Nó được rút ra từ sách Khải huyền và ám chỉ lời mời tới tiệc cưới đời đời mà phép Thánh Thể là một hình ảnh. Như vậy, những ai lúc này không thể rước lễ, thì không phải vì thế mà bị loại khỏi tiệc cưới đời đời. Như thế có thể nói đây là cuộc tự vấn lương tâm để tôi nghĩ đến có ngày xứng đáng với bàn tiệc này và tôi rước lễ lúc này trong tâm trạng hướng về bàn tiệc đó. Câu trên là lời cảnh báo, không riêng gì cho những ai không thể rước lễ, là hãy nghĩ tới con đường phải đi để có ngày được nhận vào bàn tiệc vĩnh-cửu. Và biết đâu, vì họ đã chịu khổ đau nên có thể được tiếp nhận nồng hậu hơn. Vấn đề này hãy còn bàn thảo hay đã được giải quyết dứt điểm rồi? Trên nguyên tắc đã dứt điểm, nhưng dĩ nhiên luôn có thể có những vấn đề cụ thể, riêng lẻ. Chẳng hạn, trong tương lai có thể có những xác định không cần toà án, rằng hôn nhân trước đã không thành sự. Chuyện này có thể được trao cho các linh hướng có kinh nghiệm tại địa phương xác nhận. Việc đơn giản hoá pháp lý đó có thể xẩy ra. Tuy nhiên, nguyên tắc căn bản thì vẫn hoàn toàn không thay đổi, nghĩa là hôn nhân không thể bị tháo gỡ, những ai đã từ bỏ bí tích hôn nhân thành sự để bước vào một cuộc hôn nhân khác thì không được rước lễ. Có một điểm luôn được bàn đi bàn lại: Giáo-hội cần vớt lại những gì từ truyền-thống và nên loại bỏ đi những gì? Làm sao quyết định chuyện đó? Có phải đã có một bảng với hai cột: Bên phải là những gì cần giữ, bên trái là những gì cần đổi mới? Không, không có chuyện quá đơn-giản như thế đâu. Nhưng trong truyền-thống có những điểm không đồng cân như nhau. Trước kia, trong thần-học người ta nói về những cấp-bậc của sự chắc-chắn và đấy chẳng phải là chuyện ngược đời lắm. Nhiều người cho rằng nên quay lại nó. Cụm từ cấp bậc chân lý cũng có nghĩa theo hướng đó: nghĩa là mọi chuyện không đồng cân như nhau, có những cái cơ bản như các quyết định quan trọng của cộng đồng cũng như những điều đã được ghi trong Kinh Tin Kính, đó là kim chỉ nam và vì vậy thuộc về nền tảng cốt yếu. Ngoài ra còn có những nhánh phụ, tuy cũng lien kết với nhau và thuộc vào một thân cây, nhưng không phải tất cả đều quan trọng như nhau. Bản sắc của Giáo Hội có những điểm nhận dạng, Giáo Hội không cứng đọng nhưng sống động, luôn trung thành với chính mình trong tiến trình phát triển.
TRUYỀN CHỨC LINH MỤC CHO NỮ GIỚI Cả chuyện truyền chức cho phái nữ cũng đã bị từ chối dứt khoát, một cách “bất khả ngộ”. Mùa thu 1995 Đức Giáo Hoàng tái xác-nhận: “Chúng ta không có quyền sửa đổi điểm này”. Đây lại là một luận chứng nại vào lịch sử. Nếu qủa đúng như thế thì đã không thể có một Phaolô, vì mọi cái mới sẽ loại bỏ đi những cái cũ được coi là linh thiêng và Phaolô đã đưa ra những cái mới. Câu hỏi được đặt ra: Người ta có thể vứt bỏ quy luật nào và khi nào? Phải xử sự ra sao với cái mới? Và: Rút ngắn lịch sử vào một giai đoạn và gán cho nó giá trị thần thánh không được phép thay đổi, phải chăng là làm một việc không phù hợp với tự do của Kitô Hữu ? Tôi thấy cần phải làm rõ thêm một số điểm. Trước hết, thánh Phaolô đã nhân danh đức Kitô chứ không tự mình tạo ra cái mới. Và ngài cũng nói rất rõ là ai công nhận mạc khải cựu ước mà đồng thời lại tự ý sửa đổi đi một số điểm thì người đó đã hành xử không đúng. Cái mới có thể xuất hiện, vì Thiên Chúa đã đặt sẵn cái mới trong Đức Kitô. Và với tư cách là người phục vụ cái mới đó, thánh Phaolô hiểu rằng không phải ngài đã nghĩ ra nhưng nó phát xuất từ cái mới trong Đức Giêsu Kitô. Cái mới đó gắn liền với đức Kitô và Phaolô đã rất khắt khe ở điểm này. Nếu ông nhớ lại đoạn tả về bữa tiệc ly, ông thấy Phaolô nói rõ: “Chính tôi đã nhận được điều mà tôi đang kể lại cho anh em”, và Ngài giải thích rõ ràng ngài gắn bó với những gì mà Chúa đã làm trong đêm cuối và những gì ngài đã được nghe truyền lại. Hoặc về thông điệp phục sinh, thánh nhân đã nói: “Điều đó tôi đã được nhận lãnh và chính tôi cũng đã gặp Ngài”. Và chúng tôi, và tất cả chúng tôi đều giảng dạy anh em như thế; ai không làm điều đó thì tự mình tách khỏi Đức Kitô. Phaolô phân biệt rất rõ giữa cái mới đến từ Đức Kitô và việc ngài gắn bó vào Đức Kitô, chính sự gắn bó đó đã cho phép ngài thực hiện cái mới kia. Đó là điểm một. Điểm thứ hai là quả thực trong mọi lãnh vực tất cả những gì không thực sự được qui định bởi Chúa hoặc qua truyền thống từ các tong đồ đều thay đổi liên tục cho tới ngày nay. Bởi thế vấn đề chính là: Giáo huấn đó có thật do Chúa dạy hay không? Căn-cứ vào đâu để biết là do Chúa? Khi xác nhận câu trả lời của Bộ Tín Lý về vấn đề truyền chức cho nữ giới, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không đưa ra một tuyên bố không sai lầm mới nào cả, ngài chỉ muốn xác định lại là về vấn đề này Giáo Hội xưa nay và các giám mục khắp nơi đã và đang dạy và tuân giữ như thế. Công đồng Vatican II nói: Cái gì đã được các giám mục qua thời gian rất lâu cùng dạy và hành động như thế, cái đó không sai lầm, nó biểu lộ một ràng buộc không do các ngài tự tạo ra. Câu trả lời đã căn cứ trên đoạn văn công đồng đó (Hiến-chế Ánh sáng muôn dân 25). Vì thế, như đã nói, câu trả lời trên không phải là một giáo huấn không sai lầm do Giáo Hoàng xướng xuất, nhưng là một ràng buộc dựa trên sự tiếp nối của truyền thống. Mà, thật sự, sự tiếp nối nguồn gốc này là chuyện quan trọng. Đó không phải là chuyện mặc nhiên. Các tôn giáo cổ xưa đã có nữ linh mục, và trong các phong trào ngộ giáo cũng vậy. Gần đây một nhà nghiên cứu người Ý đã khám phá ra vào khoảng thế kỷ thứ 5, 6 ở miền nam Ý có xuất hiện nhiều nhóm cắt đặt nữ linh mục, nhưng các giám mục và giáo hoàng đã can thiệp ngay. Truyền thống không xuất phát từ môi trường, nhưng từ trong lòng Giáo Hội. Tôi muốn thêm ở đây một điều khá thích thú đối với tôi. Đó là một chẩn đoán do bà Elisabeth Schüssler Fiorenza đã đưa ra về đề tài này. Bà là một trong những người Công Giáo tranh đấu cho nữ quyền nổi danh nhất. Bà là người Đức, một nhà chú giải Kinh Thánh tên tuổi. Bà học khoa này ở Münster, ở đó bà đã kết hôn với một người lai Mỹ và Ý tên Fiorenza, hiện bà đang dạy học ở Hoa Kỳ. Thoạt tiên bà hăng say tranh đấu để nữ giới được truyền chức, nhưng giờ đây bà bảo mục tiêu đó sai. Kinh nghiệm với các nữ mục sư Anh Giáo đã đưa bà tới nhận thức: “phong chức không phải là một giải đáp (ordination is not a solution)”, đó không phải là điều chúng tôi muốn. Bà nói: “truyền chức là tùng-phục (ordination is subordination)”, nghĩa là xếp-đặt vào trật tự và phục tùng, chính đây là điều chúng tôi không muốn. Chẩn đoán của bà rất đúng. Bước vào một “Chức” (Ordo) luôn có nghĩa là bước vào một liên hệ trật tự và phục tùng. Bà Schüssler Fiorenza nói, mục tiêu của phong trào giải phóng phụ nữ chúng tôi là không muốn bước vào Ordo, vào Subordo, một «subordination», chúng tôi trái lại muốn vượt lên trên chính hiện tượng đó. Bà tiếp, cuộc tranh đấu của chúng tôi bởi thế không được nhắm tới truyền chức cho phái nữ, làm thế là sa ngay vào lỗi lầm, nhưng chúng tôi phải nhắm tới bãi bỏ truyền chức, để Giáo Hội trở thành một xã hội gồm những người bình đẳng, trong đó chỉ có «schifting leadership» tức thay phiên nhau lãnh-đạo. Quả bà đã nhìn đúng nếu đi từ những lý do nội tại của tranh đấu cho việc truyền chức phái nữ, mà thực ra là vấn đề tham gia quyền lực và muốn thoát khỏi lệ thuộc. Bởi thế thực ra phải nói, đàng sau đó ẩn chứa một câu hỏi: Chức linh-mục thực ra là gì? Có một bí tích hay chỉ nên có một sự lãnh đạo tiếp nối, trong đó không ai được phép ôm vào mãi quyền-lực? Tôi tin rằng những thảo-luận trong tương lai có lẽ sẽ mang lại ít nhiều thay đổi theo chiều-hướng này. Những câu hỏi chúng ta vừa bàn, từ nhiều năm nay cứ rộ lên với lúc ít lúc nhiều tiếng vang trong dân chúng. Ngài nhận-xét thế nào về những việc làm như các cuộc trưng cầu ý kiến tín hữu ở Đức? Tôi đã đề cập tới một số điểm khi ta bàn về tình hình Giáo Hội ở Ý và các nước khác rồi. Tôi cho rằng những nhận xét của giáo sư Metz đúng trong nhiều điểm. Nếu tôi không lầm thì ông ấy coi những chuyện hô hào kia chỉ là việc lo chữa trị triệu chứng bên ngoài mà thôi, còn điểm then chốt thì đã chẳng ai nói tới. Theo ông, cái điểm đó chính là cuộc khủng hoảng Thiên Chúa “một cụm từ có lẽ không được chỉnh lắm, nhưng đã nói lên chính-xác cốt lõi vấn đề. Trước đây, lúc bàn về đồng thuận của xã hội tân tiến ngày nay chống lại đức tin, tôi đã mô tả nó như sau: Thiên Chúa, nếu có thực, thì cũng chẳng được coi ra gì. Nếu người ta sống như thế, Giáo Hội sẽ trở thành một câu lạc bộ, cứ phải tìm cho mình những mục tiêu và ý nghĩa mới để thay thế. Và rồi người ta đâm ra bực mình về tất cả những gì không thể giải thích được nếu không có Thiên Chúa. Như vậy, chính điểm cốt yếu thì lại bị loại ra ngoài. Tôi nhớ giáo-sư Metz cho hay là những đòi hỏi trong các cuộc trưng cầu đã được thực hiện trong các giáo hội Tin Lành. Mặc dầu thế họ vẫn không tránh được khủng hoảng. Và giáo sư đã nói đại khái, tại sao chúng ta lại muốn trở thành một bản sao của Tin Lành. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông ấy. Ở đây rõ ràng người ta đang muốn lập nên một Kitô Giáo cho văn-hoá phóng khoáng phương tây, một loại đức tin thế tục, đổ đồng lộn nhào nhiều chuyện. Thứ văn hoá này, thật ra chẳng lien hệ gì tới bản chất Kitô Giáo hoặc Công Giáo, nhưng xem ra lại khá lôi cuốn. Người ta có cảm tưởng, ít ra từ quan điểm thần học, giáo quyền hầu như không tìm ra điều gì để bắt bẻ trào lưu triết học đặc biệt tiêu biểu qua Eugen Drewermann này. Đợt sóng Drewermann, như ông thấy, đã êm rồi. Những gì linh-mục ấy thuyết giảng cũng chỉ là một biến dạng văn hoá chung, cảm hứng từ một đức tin bị tục hoá mà ông đã đề cập. Tôi muốn nói, người ta không muốn thiếu tôn giáo, nhưng tôn giáo chỉ được phép hiện diện và không được phép đòi hỏi gì nơi con người. Người ta muốn nắm được cái bí nhiệm của tôn giáo, nhưng đồng thời lại muốn tránh né những gánh nặng của niềm tin. Các hình thái muôn vẻ của cái tôn giáo mới đó, cái tôn giáo tính cũng như triết lý của nó ngày nay được gộp vào hai chữ New Age. Mục đích nhắm tới là một loại lien hiệp huyền bí với nguyên lý thần linh của vũ trụ, để đạt đích đó phải cần đến nhiều kỹ thuật khác nhau. Qua đó người ta tin có thể cảm nghiệm tôn giáo dưới hình thức cao đẹp nhất và đồng thời hoàn toàn không đi ra ngoài hình ảnh khoa học của vũ trụ. Đứng trước trào lưu này đức tin Kitô Giáo trở nên có vẻ cầu kỳ, chắc-chắn nó gặp khó khăn. Nhưng may thay đã không thiếu những đầu óc Kitô Giáo và những mẫu gương sống đạo lớn trong thế kỷ chúng ta. Nơi họ, chúng ta thấy sự hiện diện của đức tin Kitô Giáo và thấy đức tin đó giúp con người sống trọn nghĩa cuộc đời. Do đó nơi thế hệ trẻ đã trổi lên những lối sống Kitô Giáo một cách quyết liệt, cho dù đó không thể trở thành một phong trào tập thể, rộng lớn. Những điệp khúc chỉ trích chúng ta thảo luận trên đây chẳng dễ gì dập tắt được. Vậy phải làm sao? Có thể gạt tất cả chúng sang một bên? Liệu có ngày nào ta sẽ thoát của nợ này? Chắc chắn chúng sẽ mất tính cách khẩn cấp, khi người ta hết coi Giáo Hội như một đích điểm, như một mục tiêu tự tại hay một nơi để đạt quyền lực, khi người ta lại xác tín sống đời độc thân trong đức tin kiên cường, khi người ta xem tiêu đích của Kitô Giáo là cuộc sống đời đời chứ không phải là tụ nhau lại thành nhóm để thi thố quyền lực. Tôi xác tín rằng, vào một ngày nào đó, khi có một chuyển biến tinh thần xẩy ra, thì tính cách cấp bách của những câu hỏi trên sẽ đột ngột biến mất, cũng như chúng đã đột ngột xuất hiện, Bởi vì kỳ cùng những câu hỏi đó chẳng phải là những vấn nạn thực sự của con người.
ĐHY Joseph Ratzinger
GÓP Ý. Những vấn đề được giới thiệu trong phần còn lại ở Chương II phù hợp một cách tình cờ với: NHỮNG VẤN ĐỀ MÀ TÔNG THƯ HUMANAE VITAE nêu ra, gây nên sóng gió và đang được đánh giá lại trong những năm tháng này, nhất là được viết rất nhều trong năm nay, NĂM KỶ NIỆM 40 NĂM NGÀY CÔNG BỐ Humanae Vitae, như: ngừa tránh thai, nạo phá thai, ly dị, v..v.. NHỮNG VẤN ĐỀ THỜI SỰ VÀ CẤP BÁCH đối nghịch giữa văn hoá sự sống và văn hoá sự chết, mà câu trả lời phải chính xác, không được phép mập mờ hai nghĩa, như an tử, truyền chức linh mục cho nữ giới. Đọc những suy nghĩ của ĐHY Ratzinger, chúng ta càng thêm cảm tạ Chúa, vì những câu trả lời hết sức rõ ràng, không những không «bảo thủ » như nhiều người vẫn có thành kiến, mà cho thấy một quan điểm hết sức cảm thông và cởi mở. Ta sẽ chẳng ngạc nhiên khi đọc một tin đăng trên CNS ngày 07.08.2008: Đức Thánh Cha nói Giáo Hội phải quảng đại khi ban các bí tích cho giới trẻ, thừa nhận rằng Chúa Giêsu hẳn cũng sẽ đã làm như thế. Đức Giáo Hoàng đưa ra những lưu ý nầy trong một hội nghị kín ngày 06.08 với 400 linh mục và tu sĩ ở thành hpố Bressanone miền bắc Ý, nơi Người đang nghỉ dưỡng. Dù các phóng viên không được phép vào bên trong nhà thờ chính toà thành phố để nghe cuộc gặp gỡ kéo dài một tiếng đồng hồ, nhưng người phát ngôn Vatican, Cha Dòng Tên Federico Lombardi mô tả trong một cuộc phỏng vấn với Radio Vatican: một trong sáu câu hỏi do các linh mục đặt ra liên quan đến chăm sóc mục vụ cho trẻ em. Đức Thánh Cha đã trả lời và nói về sự cần thiết phải có bước tiếp cận rộng lớn đối với việc ban các bí tích, phản ảnh được thái độ đầy nhân ái mà Chúa Kitô đã tỏ cho thấy. Vị linh mục cho biết Đức giáo hoàng nói: “Cha thường nghiêm nhặt khắt khe hơn về điều nầy, nhưng gương của Chúa Kitô đã dẫn Cha tới chỗ trở nên ân cần hơn trong những trường hợp trong đó có thể không có một đức tin trưởng thành và vững chắc, nhưng lại có một tia sáng, một ước ao hiệp thông với Giáo Hội”. Giáo Hội Công Giáo hội đủ điều kiện để lên tiếng một cách có thẩm quyền về vấn đề phá thai. Điều này, như Đức Gioan Phaolô II đã dạy rõ, là ưu tiên số một của Tư Tưởng Xã Hội Công Giáo ngày nay và tất yếu phải được diễn tả không phải chỉ như tư tưởng xã hội, mà còn bằng hành động xã hội nữa... Khi lần đầu tiên cầm trên tay cuốn Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo nhiều tháng trước khi sách được phát hành rộng rãi năm 2004, tôi cảm thấy một sự ngạc nhiên thích thú khi đọc đoạn văn đề cập cụ thể và kết án thẳng thừng nạn phá thai trong ngữ cảnh bàn về các quyền con người và cả ở đề tài gia đình là cung thánh của Sự Sống. Sự kiện bất nhất là chủ đề phá thai thường được xem là nằm ngoài môn Học thuyết Xã hội Công Giáo được giảng dạy tại hầu hết các chủng viện và các đại học [Công Giáo]. Điều này phần lớn do các thông điệp xã hội, khởi đầu với thông điệp thời danh Rerum Novarum (Tân Sự) năm 1891 của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, tương đối ít đề cập đến vấn đề phá thai. Trong toàn bộ chín thông điệp xã hội, từ “phá thai” xuất hiện chỉ bốn lần, không lần nào vấn đề được đề cập rốt ráo. Một phần, sự im lặng này là do chỉ tương đối gần đây thôi, phá thai mới xuất hiện như vấn đề luân lý trên diện rộng. Với sự phát triển khả năng giết người cũng như cứu người của y khoa, con số ca phá thai đã lên đến mức báo động trong bốn thập niên qua. Do đó, lần đầu tiên phá thai được đề cập đến trong một thông điệp xã hội là vào năm 1971 với Thông Điệp Octogesima Adveniens (Năm thứ tám mươi) của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Ở đây Đức Phaolô nhắc đến việc phá thai trong ngữ cảnh các giải pháp Malthus cho vấn đề thất nghiệp (số 18). Một phần khác nữa, sự im lặng phản ánh sự hiểu biết phổ biến phá thai như vấn đề đạo đức y khoa hơn là vấn đề công bằng xã hội, lĩnh vực chính của tư tưởng xã hội Công Giáo. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người thực tế đã xoay chiều tình huống, mạnh mẽ đưa vấn đề phá thai vào trong Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo. Trong Thông Điệp Evangelium Vitae (Phúc Âm Sự Sống) năm 1995 ngài đề cập đến vấn đề một cách toàn diện, đặt vấn đề vào trong nội dung công bằng xã hội. Khi bắt đầu thảo luận về tính trầm trọng của những cuộc tấn công chống lại Sự Sống ngày nay, đặc biệt là việc phá thai, Đức Gioan Phaolô rõ ràng gợi ta nhớ đến thông điệp Rerum Novarum và ngài đã so sánh các vấn đề Sự Sống ngày nay với vấn đề công nhân thời Đức Lêô: Cách đây một thế kỷ chính các công nhân mới là giai cấp bị áp bức về các quyền cơ bản của mình, điều Hội Thánh bảo vệ họ một cách rất can đảm bằng cách tuyên bố các quyền thiêng liêng của công nhân với tư cách là một con người, cho nên bây giờ, khi một loại người khác đang bị áp bức về quyền cơ bản đối với Sự Sống, Hội Thánh cảm thấy có nhiệm vụ phải nói thẳng cũng với sự can đảm đó thay cho những ai không có tiếng nói. Tiếng kêu của Hội Thánh luôn luôn là tiếng kêu Phúc Âm bảo vệ những người nghèo trên thế giới, những người bị đe dọa và khinh miệt và bị vi phạm các quyền con người (số 5). Đoạn văn này, từ những trang đầu tiên của Evangelium Vitae đóng khung toàn bộ câu hỏi về phá thai theo Giáo Huấn của Hội Thánh. Nếu thông điệp năm 1891 của Đức Lêô XIII tập chú vào số phận gia cấp công nhân là giai cấp xã hội cần nhất đến sự bảo vệ can trường vào lúc đó, thì sự chú ý của Huấn Quyền xã hội ngày nay nên chuyển sang lớp mới những người bị áp bức này. Đức Gioan Phaolô II nói tiếp: “Ngày nay có muôn vàn con người yếu đuối, không phương tiện tự vệ, bị coi rẻ trong quyền căn bản được sống còn, đặc biệt là trường hợp các hài nhi sắp được sinh ra. Nếu vào cuối thế kỷ trước Giáo Hội không được im lặng trước những bất công ở thời đó, thì ngày nay Giáo Hội càng không thể im lặng, khi mà cùng với những bất công, lại tăng thêm, trên nhiều miền ở khắp thế giới, những bất công và những hiện tượng áp bức còn nặng nề hơn, đôi khi được trình bày như là những yếu tố của tiến bộ nhằm tổ chức trật tự thế giới mới” (số 5). TẠI SAO PHÁ THAI ĐÁNG CHÚ Ý MỘT CÁCH ĐẶC BIỆT TRONG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO? Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô thấy rằng phá thai là một vấn đề đạo đức-xã hội mang tính tượng trưng và đặc thù, đáng được sự tập trung chú ý trong tư tưởng xã hội Công Giáo. Để diễn tả tính đặc thù của việc phá thai với tính cách một vấn đề về công bằng xã hội, đây là sáu đặc điểm phân biệt phá thai với các hiện tượng xã hội có liên quan: 1. Phá thai liên quan cụ thể đến vấn đề hủy diệt Sự Sống vô tội: Điều này phân biệt việc bàn về phá thai với các đề tài có liên quan khác. Ta không bàn về việc giết kẻ địch, như trong chiến tranh, hoặc những kẻ sát nhân đã bị kết án, như trong trường hợp hình phạt tử hình, vị Hồng Y lúc đó là Joseph Ratzinger vào tháng 6 năm 2004 đã viết: “Có thể có một số sự khác biệt chính đáng về ý kiến ngay cả trong số những người Công Giáo về việc tiến hành chiến tranh và áp dụng hình phạt tử hình, nhưng tuy nhiên đối với vấn đề phá thai và an tử thì không”. Mặc dù mọi Sự Sống đều quý giá, thần học luân lý đã luôn luôn phân biệt việc hủy diệt “Sự Sống vô tội” là đặc biệt xấu và luôn luôn đáng phải lên án ở bất kỳ nơi đâu. Không ai có thể “trong bất kỳ trường hợp nào, tự biện minh cho mình quyền hủy diệt trực tiếp một sinh mạng vô tội” (Bộ Giáo lý Đức Tin, Donum Vitae, 76-77). Không ai vô tội hơn và vô phương tự vệ cho bằng một trẻ em chưa sinh. 2. Một nhân tố khác phân biệt phá thai với tính cách một hiện tượng xã hội chính là biên độ của vấn đề: Hàng năm ước có khoảng 46 triệu ca phá thai được thực hiện trên thế giới, một con số tự bản thân nó đã khiến cho phá thai trở thành một vấn đề xã hội với những tỷ lệ làm ta thảng thốt. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô viết: “Nhân loại thời nay bày ra một cảnh tượng thật sự đáng báo động nếu chúng ta xem xét không những mức độ ác liệt của những cuộc tấn công tràn lan đối với Sự Sống mà còn ở quy mô chưa từng nghe thấy về số lượng những cuộc tấn công” (Evangelium Vitae, số 17). Một vụ giết người đơn độc có thể là một vấn đề xã hội, nhưng là một vấn đề xã hội có giới hạn. Một kẻ giết người hàng loạt thì gây ra một vấn đề xã hội nghiêm trọng hơn. Nhưng các vụ giết người mỗi năm lên đến hàng triệu người đòi hỏi phải có hành động ngay lập tức và quyết liệt. Số lượng các vụ phá thai nêu bật tính xã hội của vấn đề, và làm cho phá thai trở thành một trong những vấn đề công bằng xã hội nghiêm trọng nhất của mọi thời. 3. Một nhân tố thứ ba phân biệt phá thai với các vấn đề công bằng khác là tính pháp lý của nó. Không giống với các trường hợp giết Sự Sống con người hàng loạt khác, như khủng bố hoặc giết người hàng loạt, rõ ràng là bị liệt ra ngoài vòng pháp luật tại các nước tiên tiến, phá thai được hưởng sự miễn trừ pháp lý. Phá thai hủy diệt Sự Sống con người một cách có hệ thống, hợp vệ sinh, hợp pháp. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đã viết về tính mới mẻ của “những đe dọa được lập trình một cách khoa học và có hệ thống” (Evangelium Vitae, số 17). Sau này, ngài có nhận xét về tính đặc thù của phá thai là một quyền pháp lý. Sau khi liệt kê hàng loạt các đe dọa khủng khiếp đối với Sự Sống con người, như nạn suy dinh dưỡng, chiến tranh và nạn buôn bán vũ khí, ngài tương phản các đe dọa này với một loại đe dọa mới đối với Sự Sống. Chẳng những các cuộc tấn công đối với Sự Sống không còn bị xem là tội ác, nhưng, ngài viết “chúng mặc lấy một cách nghịch lý tính chất “các quyền”, đến nỗi người ta đòi hỏi Nhà Nước cho họ được sự nhìn nhận hợp pháp và thực hiện các quyền đó thông qua các dịch vụ miễn phí do các nhân viên chăm sóc sức khỏe tiến hành” (Evangelium Vitae, số 11). 4. Khía cạnh mang tính phân biệt thứ tư của phá thai là sự phân chia tùy tiện con người thành những người đáng sống và những người không đáng sống. Phá thai không phải giết bừa những cá nhân không có liên hệ mà là với sự khoanh vùng cả một lớp mới những con người (chưa sinh) như những phi-nhân-vị (non-persons), bị loại trừ khỏi các quyền và sự bảo vệ cơ bản được dành cho tất cả các con người khác. Bằng cách này, phá thai bắt chước các đại thảm kịnh lịch sử của mọi thời, luôn luôn bắt đầu bằng cách vu vạ cho cả một lớp người là không đáng sống hay đáng được tự do. Về mặt lịch sử, các tội ác xã hội lớn nhất đối với nhân loại nạn diệt chủng, tệ phân biệt chủng tộc, phá thai, chủ nghĩa bài Do Thái, phân biệt giới tính, nạn nô lệ đã luôn luôn vi phạm nguyên tắc bình đẳng, đưa toàn bộ một bộ phận của gia đình nhân loại xuống một vị trí thấp hơn với một phẩm giá nằm dưới những người còn lại. Vì nhân quyền xuất phát từ nhân phẩm, nên một khi phẩm giá bị đặt vấn đề thì các quyền bình đẳng cũng đành chịu chung một số phận. Nếu nhân phẩm tùy thuộc vào một cái gì đó không phải là địa vị thành viên nhân loại cho dù cái đó có là trí thông minh, khả năng thể thao, vị trí xã hội, chủng tộc, tuổi tác, hoặc sức khỏe ta ngay lập tức thấy như thế là đã phân biệt ra hai hạng người: những người có thế giá và những người không. Như Đức Gioan Phaolô đã viết: “Làm sao còn nói được tới phẩm giá của nhân vị, khi người ta giết những kẻ yếu nhất và vô tội nhất? Nhân danh công lý nào mà người ta thực hiện sự kỳ thị đến mức bất công đối với những con người như thế, bằng cách tuyên bố rằng một số những người này đáng được bảo vệ, còn những người kia thì bị từ chối quyền sống?” (Evangelium Vitae, số 20). 5. Phá thai còn tự phân biệt khỏi các vấn đề khác về y đức, như an tử và giúp người khác tự tử, bởi sự thiếu vắng khả năng có sự đồng ý của đương sự. Tình trạng của người chưa sinh là người không có tiếng nói và hầu như vô phương tự vệ, như vậy đây là một chiều kích cần thêm vào các cuộc thảo luận về tính luân lý và sự nghiêm trọng của việc phá thai. Ở đây phạm trù đạo đức sinh học gọi là “quyền tự chủ” không thể áp dụng được, vì trẻ chưa sinh không có cách nào tự lên tiếng được. 6. Cuối cùng, phá thai không giống các tệ nạn xã hội chủ yếu khác như thất nghiệp và ly dị bởi vì tính vô hình tương đối của nó. Không những chính các nạn nhân không có tiếng nói mà những ai có lợi ích từ việc phá thai không hề mảy may lên tiếng trước công chúng; nói chung, các bà mẹ và các gia đình là nạn nhân thứ hai của việc phá thai cũng không lên tiếng. Ngay cả các nhà lập pháp cũng thận trọng về những cuộc thảo luận thẳng thắn về hiện tượng phá thai, còn quảng cáo để bảo vệ Sự Sống thì bị cấm tại hầu hết hệ thống truyền hình. Phá thai diễn ra đằng sau những cánh cửa đóng kín, và không được đưa ra trước công chúng. Như trong trường hợp nô lệ, việc chấm dứt tình trạng bất công xã hội của việc phá thai chủ yếu tùy thuộc vào lòng can đảm và sự sẵn lòng lên tiếng của những con người và các tổ chức không trực tiếp can dự vào việc phá thai. SỰ ĐÓNG GÓP CỤ THỂ CỦA CÁC TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CÔNG GIÁO TRONG VẤN ĐỂ PHÁ THAI Tư tưởng Xã Hội Công Giáo đề ra hai yếu tố cần phân biệt trong cuộc tranh luận về phá thai. Trước hết, nó đặt ra nhịp cầu giữa thần học luân lý và việc thảo luận công khai. Trong kinh nghiệm lâu dài xử lý các vấn đề xã hội, Hội Thánh không những đã tìm cách trình bày chân lý Kitô giáo trong tất cả sự phong phú của chân lý, nhưng còn tìm cách ảnh hưởng đến các Kitô hữu và mọi người thiện chí trong việc xây dựng một nền văn minh công lý và tình yêu. Nhằm mục đích này, Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo thường sử dụng từ vựng luật tự nhiên hướng đến tất cả những người thiện chí, và đưa ra những lập luận có sử dụng các khái niệm và cách cấu tạo dễ tiếp cận có thể đem ra thảo luận về luân lý trong một môi trường trong đó người ta không công khai tuyên xưng các xác tín chung (a non-confessional environment). Thứ hai, có lẽ hơn bất kỳ định chế nào trên thế giới, Hội Thánh trong Giáo Huấn Xã Hội của mình đã phát triển một số các nguyên tắc nhằm giải đáp các vấn đề luân lý phức tạp trong xã hội. Vì các tình huống mới phát sinh từ khung cảnh chính trị-xã hội đang thay đổi nhanh chóng, cho nên Hội Thánh đã cho thấy sự uyển chuyển đáng khâm phục trong việc thích ứng với các tình thế mới trong khi vẫn đang bảo vệ phẩm giá chính yếu của nhân vị và gia đình. Một trường hợp điển hình là lập trường ưu tiên chọn lựa người nghèo của Hội Thánh, một nguyên tắc Phúc Âm, chủ ý nhấn mạnh vào và chú ý đến những người đang cần trợ giúp nhất. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi đó là “một hình thức đặc biệt của việc ưu tiên thực hiện bác ái Kitô Giáo” ảnh hưởng trên cuộc sống mọi Kitô hữu (Sollicitudo Rei Socialis [Thông điệp Quan tâm đến các Vấn đề xã hội], số 42). Trong nhiều dịp, Huấn Quyền đã giải thích rõ là “người nghèo” muốn nói ở đây không phải là một giai cấp xã hội, hoặc chính là những người chịu sự thiếu thốn vật chất, nhưng bao gồm những người chịu mọi nỗi khốn cùng và túng quẫn. Ta đọc trong sách Giáo Lý: “Sự khốn cùng này đã khiến Ðức Kitô chạnh lòng thương xót và mang lấy thân phận khốn cùng của con người và tự đồng hóa với người bé nhỏ trong các anh em” (số 2448). Như một người mẹ tuy dành nhiều thời gian và sức khỏe cho một đứa con đang bị bệnh, nhưng không vì lý do đó mà yêu thương những đứa con khác ít đi, các Kitô hữu được kêu gọi tập trung các nỗ lực để ưu tiên dành cho những người túng thiếu và vô phương tự vệ nhất trong chúng ta. Áp dụng nguyên tắc này vào xã hội đương thời, thì bất công xã hội đang kêu gào lớn nhất đối với lương tâm Kitô hữu, vì các lý do đã nêu, lại là cuộc tấn công có chủ đích và trên diện rộng nhắm vào những thành viên yếu đuối nhất của xã hội, là những trẻ chưa sinh. Trong truyền thống đáng kính đứng lên bảo vệ những thành viên vô phương tự vệ nhất của xã hội, Giáo Hội Công Giáo hội đủ điều kiện để lên tiếng một cách có thẩm quyền về vấn đề phá thai. Điều này, như Đức Gioan Phaolô Vĩ Đại đã dạy rõ, là ưu tiên số một của Tư Tưởng Xã Hội Công Giáo ngày nay và tất yếu phải được diễn tả không phải chỉ như tư tưởng xã hội, mà còn bằng hành động xã hội nữa. Lm. THOMAS D. WILLIAMS, L.C. Bản dịch của ĐAN QUANG TÂM
|
Sống Lời Chúa >